.

Đồng chí Đinh Thị The, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Thần Khê
Triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với tăng trưởng xanh
Qua nghiên cứu dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, tôi rất đồng tình với nội dung tại Mục IV: “Cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ cấu lại toàn diện, chuyển sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp”. Tôi cho rằng nội dung này đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng trong phát triển nông nghiệp bền vững, coi nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nền tảng và động lực quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên từ thực tiễn địa phương, tôi cho rằng để phát triển bền vững, cần chuyển mạnh từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, lấy thị trường làm cơ sở, lấy hiệu quả làm thước đo, cần chú trọng phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ nông thôn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; đồng thời hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, bảo đảm truy xuất nguồn gốc, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần quan tâm đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn, giúp nông dân làm chủ công nghệ mới, thích ứng với yêu cầu của nền nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng, hỗ trợ vốn và cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế xanh, tạo điều kiện để người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đầu tư đổi mới sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường. Tôi tin tưởng rằng, với việc triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với tăng trưởng xanh, khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ tiếp tục giữ vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển nhanh, bền vững của đất nước, hiện thực hóa khát vọng Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Ông Nguyễn Trọng Thành, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương (xã Bắc Tiên Hưng)
Cần xây dựng cơ chế chính sách thực hiện tín chỉ carbon
Trong dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, tôi thấy vấn đề bảo vệ môi trường nhận được sự quan tâm rất lớn. Dự thảo đã đưa vào rất đậm nét nội dung, lĩnh vực môi trường cũng như các mục tiêu, chỉ tiêu để thực hiện. Tôi rất quan tâm phần II, các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2026 - 2030, trong đó có mục tiêu “lượng phát thải khí nhà kính giảm 8 - 9%” nhằm thực thi cam kết của Việt Nam đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050.
Theo thống kê kiểm kê gần nhất, nông nghiệp phát thải khoảng 116 triệu tấn CO2 (carbon), chiếm hơn 25% tổng phát thải của Việt Nam, trong đó chủ yếu ở sản xuất lúa gạo và chăn nuôi. Vì vậy, để Việt Nam thực hiện thành công cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050, việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất lúa gạo carbon thấp đã trở thành yêu cầu bắt buộc. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương đã áp dụng các biện pháp canh tác giảm phát thải khí nhà kính từ năm 2017 đến nay và đang hướng tới việc mở rộng diện tích từ đó có thể bán tín chỉ carbon. Từ thực tế tại địa phương, tôi cho rằng, cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, cung cấp các khóa đào tạo, tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm cho doanh nghiệp và người nông dân về tín chỉ carbon. Cùng với đó, xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm đếm và xác nhận lượng phát thải thực tế minh bạch, độc lập cấp quốc gia, thống nhất giữa các bộ, ngành và doanh nghiệp phát thải lớn. Do đó, tại phần IX - Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, theo tôi nên bổ sung nội dung “Xây dựng cơ chế chính sách thực hiện tín chỉ carbon cho người dân vùng trọng điểm canh tác lúa, vùng có rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn”. Vì khi tín chỉ carbon được quy ra giá trị kinh tế, người dân được hưởng lợi, sẽ khuyến khích, tạo động lực để họ tham gia bảo vệ môi trường sống.

Chị Vũ Phương Anh, Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Hoàng Hoa Thám
Cần có một bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng
Một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của đất nước được đề cập trong dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng là “Văn hóa, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững”. Đây là sự khẳng định văn hóa trong phát triển quốc gia, văn hóa không còn là lĩnh vực “mềm”, mà là nguồn lực “cứng”, góp phần tạo sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Với thế hệ trẻ, đó là định hướng, là lời nhắc nhở về trách nhiệm kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong thời kỳ mới. Tôi xin bổ sung nội dung tại “Mục V - Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam”, đó là: Có cơ chế khuyến khích hợp tác công, tư và xã hội hóa, cũng như quy định rõ trách nhiệm phân bổ nguồn lực của từng cấp, từng ngành; cần có chính sách mạnh mẽ hơn cho phát triển văn hóa số và công nghiệp văn hóa.
Trong bối cảnh mạng xã hội đang trở thành “không gian sinh hoạt chính” của giới trẻ, cần có một bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng để hình thành chuẩn mực mới, đồng thời khuyến khích sáng tạo các nội dung tích cực. Cần làm rõ cơ chế trọng dụng nhân tài, phát huy vai trò của các lực lượng sáng tạo, bổ sung cơ chế đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, bảo vệ bản quyền sáng tạo, khuyến khích sự dấn thân của giới trẻ trong lĩnh vực công nghiệp sáng tạo... Đồng thời cụ thể hóa chiến lược ngoại giao văn hóa và xây dựng sức mạnh mềm quốc gia, đề cập mạnh mẽ hơn tới việc xây dựng thương hiệu văn hóa quốc gia, tổ chức các sự kiện văn hóa, nghệ thuật tầm quốc tế, tăng cường sự hiện diện của Việt Nam trong các mạng lưới sáng tạo toàn cầu.
Nguồn: Baohungyen.vn