Tháng 12-1967, sau khi tốt nghiệp Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội), đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tiếp nhận về làm biên tập viên Tạp chí Học tập, nay là Tạp chí Cộng sản. Kể từ đó, cả cuộc đời đồng chí gắn bó với công tác lý luận của Đảng cho dù gánh vác các trọng trách khác nhau trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đặc biệt cả khi đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng. Đồng chí là một nhà lý luận xuất sắc với nhiều cống hiến to lớn, quan trọng trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước ta.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 2016 - 2021, bàn phương hướng, nhiệm vụ công tác nhiệm kỳ 2021 - 2026 của Hội đồng Lý luận Trung ương _Ảnh: Tư liệu
Người chủ trì tổng kết, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Nếu nói lý luận về đường lối đổi mới là những luận điểm sâu sắc, toàn diện về xây dựng, phát triển đất nước ta trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, thì nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là vấn đề trung tâm, cốt lõi, chi phối của hệ thống lý luận đó. Chính từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những bài học kinh nghiệm thành công, thất bại của các nước trên thế giới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực và việc tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ ràng hơn những đặc trưng quan trọng nhất của mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Mô hình đó bắt đầu được khẳng định một cách cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) với mục tiêu khái quát là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, với 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; (3) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu khái quát đó, Đảng ta chủ trương thực hiện 7 phương hướng gắn với 7 lĩnh vực chủ yếu của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, có ý nghĩa như con đường, cách thức để đạt được đích đến là các đặc trưng của chế độ xã hội, bao gồm: (1) Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; (3) Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở hữu; (4) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; (5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; (6) Thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cần phải nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 đã là một bước tiến rất quan trọng, cơ bản về nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới từ sau năm 1991, bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi rất nhanh chóng và phức tạp, trong đó sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô dẫn đầu, đẩy tới một thời kỳ vô cùng khó khăn cho phong trào công nhân và cộng sản toàn thế giới. Mặt khác, thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, nhất là việc nhận thức và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, kể cả những vấn đề nội bộ đất nước ta cũng như những vấn đề trong quan hệ quốc tế, đã mang lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, giúp cho chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn những nội dung, yêu cầu, các giải pháp cần thiết để xây dựng, phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Cũng trong quá trình đó, Đảng ta nhận thấy có những nội dung về mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta nêu ra và xác định trong Cương lĩnh năm 1991 hoặc là chưa đầy đủ, toàn diện, hoặc là đã bị thực tiễn vượt qua. Do đó, việc tiếp tục bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị của Đảng để hoàn thiện thêm một bước nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta trở thành một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi thực tiễn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người trực tiếp chỉ đạo việc triển khai nghiên cứu, tổng kết, chuẩn bị cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và nội dung các vấn đề bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Đại hội XI của Đảng năm 2011 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam được nhận thức rõ hơn, được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng: (1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) Do nhân dân làm chủ; (3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; và (8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Từ 6 đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam xác định trong Cương lĩnh năm 1991 đến 8 đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã là bước tiến rất xa, bước chuyển rất quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã đưa nội dung “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thành đặc trưng thứ nhất, thể hiện mục tiêu tổng quát, tính chất ưu việt của chế độ xã hội Việt Nam. Đặc trưng về Nhà nước Việt Nam được đưa vào Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, như một đặc trưng không thể thiếu của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đây không chỉ là sự xác định tính chất nhà nước mà Việt Nam hướng tới xây dựng, hoàn thiện trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà còn thể hiện sự trưởng thành, tính khoa học khách quan của Đảng ta trong nhận thức tính quy luật chung của sự phát triển nhà nước trong tiến trình lịch sử của nhân loại. Một số đặc trưng khác của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng được cập nhật, bổ sung, phát triển, nhằm làm rõ hơn tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với điều kiện riêng có của Việt Nam.
Cùng với việc bổ sung, phát triển các đặc trưng, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 cũng bổ sung, phát triển, cập nhật, làm rõ thêm 8 phương hướng xây dựng, phát triển đất nước, nhất là xác định rõ phương hướng về kinh tế là “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, và phương hướng xây dựng nhà nước là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Để thực hiện 8 phương hướng trên, lần đầu tiên, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng đã chỉ ra và xác định các mối quan hệ lớn phải chú trọng nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng và phát triển đất nước. Đó là các mối quan hệ giữa: đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Từ sau Đại XI đến nay, Đảng ta cũng bổ sung hai mối quan hệ: giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Với trách nhiệm là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, người phụ trách công tác lý luận của Đảng trong nhiều năm, đồng chí Nguyễn Phú Trọng không chỉ có công lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, đổi mới, phát triển nhận thức của Đảng ta về đường lối đổi mới, về mô hình chủ nghĩa xã hội riêng có của Việt Nam, mà còn trực tiếp nghiên cứu, công bố các bài viết với tư duy lý luận sâu sắc và thực tiễn. Tháng 4-2012, trong bài thuyết trình tại Trường Đảng Trung ương Cu Ba Ni-cô Lô-pết với chủ đề “Vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, đánh giá tình hình thế giới và những vấn đề đặt ra sau khi Liên Xô tan rã, những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ và các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ ở nhiều nước tư bản phát triển, và chỉ ra rằng, “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa” hàng loạt vấn đề đang đặt ra trong bối cảnh thế giới đương đại. Điều này xuất phát từ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Cho dù có những thay đổi nhất định về xã hội do tác động của sự phát triển khoa học và công nghệ, dưới áp lực cuộc đấu tranh của các giai cấp lao động, cho dù có quảng cáo, hay tô vẽ bằng cả một hệ thống truyền thông, báo chí khổng lồ về “dân chủ, tự do”, thì bản chất chủ nghĩa tư bản vẫn không thể thay đổi, các thế lực thống trị vẫn là đại diện cho ý chí của các tập đoàn tư bản. Và do đó, nó không thể mang lại cái mà nhân dân lao động và toàn nhân loại tiến bộ những giá trị cần có, phải có: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(1). Trong khi không chỉ trong học thuyết khoa học mà trên thực tế sinh động hằng ngày, đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, là những giá trị mà chủ nghĩa xã hội coi như mục đích lý tưởng để hiện thực hóa bằng những nỗ lực liên tục, không mệt mỏi và được minh chứng không thể phủ nhận trên thực tế.
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết không chỉ tiếp tục khẳng định những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, mà còn là một bản luận cương cơ bản, toàn diện, mang tầm khái quát cao về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Từ nhận thức lý luận, chỉ ra những nội dung cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đồng chí chứng minh cho sự đúng đắn của những vấn đề lý luận, đường lối đó bằng những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới của nước ta. Và cũng từ đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa
Trong toàn bộ hoạt động lý luận của mình, đồng chí Nguyễn Phú Trọng dành sự quan tâm đặc biệt cho những vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo thống kê sơ bộ có thể thấy phân nửa các bài viết của đồng chí đã công bố là viết về Đảng, về những vấn đề trực tiếp liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên những bình diện khác nhau. Điều này xuất phát từ nhận thức có tính nguyên tắc nhất quán của đồng chí: “chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa” bởi vì “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(2). Nhấn mạnh quan điểm nhất quán, coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng chí Nguyễn Phú Trọng coi đó như là một logic tất yếu, một vấn đề do các yếu tố khách quan xã hội quy định, bởi vì Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, cán bộ được đồng chí xác định “là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”(3).
Nhận thức lý luận của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao quát một phổ rộng, toàn diện những vấn đề liên quan, từ mục tiêu, tính chất, các nguyên tắc hoạt động, phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, đến các lĩnh vực cụ thể, như công tác tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, kỷ luật, kỷ cương, văn hóa trong Đảng...
Trước hết, về bản chất của Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, luận giải rất sâu sắc trong bài “Hiểu thế nào về bản chất của Đảng ta?”, đăng tải trên Tạp chí Cộng sản từ tháng 3-1996. Trong bài viết, đồng chí đã dựa vào toàn bộ lịch sử hoạt động của Đảng, những luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng để luận giải, minh chứng, làm rõ bản chất của Đảng được xác định trong các văn kiện của Đảng; qua đó cũng chỉ ra một số biểu hiện không phù hợp trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về bản chất của Đảng. Đồng chí chỉ rõ, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng do Đại hội VII của Đảng năm 1991 thông qua “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, là sự khẳng định rõ bản chất giai cấp của Đảng, đồng thời thể hiện ý nghĩa, tính chất nhân văn, dân tộc của Đảng. Hơn nữa, điều đó cũng thể hiện nguyên tắc trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu của tổ chức đảng mà Người đã khai sinh, lý tưởng của cuộc cách mạng mà Người đã phát động và lãnh đạo. Bởi chính Người đã khẳng định rằng Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời là Đảng của dân tộc, rằng Đảng mà Người phụng sự là “Đảng Việt Nam”. Nhưng để có thể hoàn thành được trách nhiệm “đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, Đảng phải thường xuyên tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, phải “giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng”, phải không ngừng tăng cường “bản chất cách mạng và khoa học, ý chí kiên định và trí tuệ tiên phong, đạo đức mẫu mực và ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ... của giai cấp công nhân”(4).
Là một nhà lãnh đạo chính trị dày dạn kinh nghiệm, lại có tri thức phong phú của nhà lý luận, sự trải nghiệm thực tế lâu năm của một nhà báo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiểu rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đồng chí thường xuyên quan tâm việc xây dựng, phát triển hệ thống công tác tư tưởng của Đảng, từ Ban Tuyên giáo Trung ương đến các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn học, nghệ thuật... Tinh thần mà đồng chí nhiều lần nhấn mạnh “Tiền hô hậu ủng/ Nhất hô bá ứng/ Trên dưới đồng lòng/ Dọc ngang thông suốt” cũng có thể coi là một yêu cầu, một phương châm có ý nghĩa chỉ đạo đối với công tác tư tưởng của Đảng. Đó cũng là đòi hỏi, trách nhiệm đối với lĩnh vực công tác tư tưởng phải thực hiện để đóng góp vào sự nghiệp chung của cách mạng. Đối với công tác lý luận, đồng chí yêu cầu “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”; phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển, khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí quyết tâm vươn lên của cả dân tộc...”(5).
Công tác tổ chức, cán bộ là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ, như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Song, đó lại là công việc xây dựng con người, là công tác con người, vô cùng phức tạp, tinh tế, dễ va chạm đến danh dự, quyền lợi. Vì thế, đồng chí yêu cầu không thể nóng vội, phải quan tâm bảo vệ cán bộ, nhưng cũng phải kiên quyết với những khuyết điểm, hạn chế của cán bộ để ứng xử một cách hợp lý. Đặc biệt, đồng chí nhấn mạnh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình một cách tự giác và nghiêm túc, phải thực hiện kiên trì, bền bỉ, làm thường xuyên, liên tục, như “đánh răng, rửa mặt, quét nhà, rửa bát hằng ngày” như Bác Hồ đã dạy. Theo đồng chí, để làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, phải làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách, kiểm tra thường xuyên, đánh giá lựa chọn chặt chẽ để bố trí, sắp xếp cán bộ đúng người, đúng việc; đồng thời phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn đẩy lùi những hạn chế, yếu kém, kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức đảng, nhất là ra khỏi những vị trí lãnh đạo, quản lý, những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, để làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phải tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức, về trách nhiệm tiên phong gương mẫu, nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Nhưng để giải quyết tận gốc rễ những hạn chế, yếu kém trong Đảng, thì phải tìm ra được nguyên nhân của nó, mà theo đồng chí, đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân.
Cùng với công tác tư tưởng, tổ chức, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết, đưa ra nhiều luận điểm lý luận một cách toàn diện về các lĩnh vực công tác của Đảng, như kiểm tra, kỷ luật, dân vận, đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng... Trên nền của tất cả những lĩnh vực đó, nổi bật lên vấn đề nhân dân, được đồng chí nhắc đến, nhấn mạnh nhiều nhất, sâu sắc nhất. Nhân dân được đặt ra, lý giải và nhận định trên tất cả các chiều cạnh, từ vai trò và vị trí nhân dân đối với chế độ, Đảng, Nhà nước và xã hội; từ sức mạnh của nhân dân với vai trò là động lực, nguồn lực quan trọng nhất của phát triển; đến nhân dân là mục tiêu, động lực của cách mạng, trung tâm của mọi chiến lược phát triển; các yêu cầu và giải pháp nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, đồng chí còn phân tích cụ thể, chỉ ra bản chất sâu xa của mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, từ đó làm rõ trách nhiệm của Đảng, Nhà nước với nhân dân; chỉ ra yêu cầu có tính nguyên tắc về tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, đồng chí nói: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”(6). Đây không chỉ là một quan điểm xuất phát từ tấm lòng thương yêu hết mực nhân dân, một tinh thần “luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu”, mà hơn thế nữa, còn là sự nhận thức sâu sắc về cội nguồn làm nên sức mạnh của Đảng chính là niềm tin của nhân dân. Trong câu nói của đồng chí ta bắt gặp ý nghĩa sâu sắc của nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”(7).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào xã Sông Trà, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam _Ảnh: Tư liệu
Đổi mới nhận thức lý luận nhiều lĩnh vực dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Cùng với những vấn đề nền tảng, căn cốt của lý luận về đường lối đổi mới là nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, di sản lý luận chính trị của đồng chí Nguyễn Phú Trọng bao quát hầu hết các vấn đề, các lĩnh vực trong đời sống xã hội của đất nước.
Về vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, đó là “một kiểu kinh tế thị trường mới" trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”(8). Khi bàn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đồng chí luôn nhấn mạnh một thuộc tính quan trọng của nó, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Thuộc tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam được hiểu là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”. Trong nền kinh tế ấy, “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”(9). Nhấn mạnh và thực hiện có hiệu quả thuộc tính này chính là một nguyên tắc, là cơ sở để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm cho tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Trên cơ sở phân tích, làm rõ tính chất, nội dung, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí khẳng định đây là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”, là thành quả phát triển lý luận từ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn công cuộc đổi mới của Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Về vấn đề văn hóa, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(10). Nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò to lớn của văn hóa, ngay trong mở đầu bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn…”. Đồng chí tổng kết khái quát nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang hướng tới xây dựng, có nội dung: Thứ nhất, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; thứ ba, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; thứ tư, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại; và thứ năm, mục tiêu là, xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao(11).
Về lĩnh vực đối ngoại, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trên thế giới. Nó được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập và chỉ rõ nội dung trong bài phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ngày 14-12-2021. Đó là “trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”..., thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Đó là, mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân... Biết nhu, biết cương, biết thời, biết thế; biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”!”. Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam là kết quả sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu, thân thiện và nhân văn của dân tộc. Khẳng định trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đồng chí cũng đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Những thành tựu nổi bật về ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn và hiệu quả của trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.
Về vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cùng với việc trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo triển khai thực hiện quyết liệt trên thực tế, với tinh thần kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng là người đóng góp quan trọng vào tổng kết lý luận, khái quát những vấn đề có tính quy luật, nhằm bảo đảm hiệu quả toàn diện của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Từ thực tế phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong nước và kinh nghiệm quốc tế, đồng chí đưa ra 6 bài học lớn. Đó là: (1) Phải có quyết tâm chính trị cao, sự lãnh đạo thống nhất của Đảng; (2) Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là chống “giặc nội xâm”, vì thế phải kiên quyết, kiên trì, không ngừng nghỉ..; (3) Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa, phát hiện với xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh; (4) Phải gắn chống tham nhũng với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; (5) Kiểm soát được quyền lực nhà nước; (6) Có giải pháp phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những bài học kinh nghiệm này, đồng chí yêu cầu định hướng cho công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Một là, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; hai là, tiếp tục xây dựng đồng bộ, hoàn thiện thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội; ba là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, kiểm toán; bốn là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; năm là, tiếp tục hoàn thiện bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng, chống tham nhũng. Năm định hướng trên đây cho thấy nhận thức lý luận chính trị của đồng chí Tổng Bí thư về tham nhũng, tiêu cực rất toàn diện, trong đó “chống” và “xây” quan hệ biện chứng với nhau. “Chống” đồng thời với “xây” và “xây” để bảo đảm sự phát triển vững mạnh...
Cả cuộc đời hoạt động chính trị - xã hội đều gắn liền với công tác lý luận của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại di sản lớn về lý luận chính trị. Đồng chí đã công bố hàng trăm bài báo, bài viết nghiên cứu, xuất bản gần 30 cuốn sách. Là một nhà lý luận xuất sắc của Đảng và Nhà nước, mặc dù bản thân đã phát hiện, đề xuất nhiều vấn đề lý luận về các lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội, song đồng chí không bao giờ tự nhận về mình, luôn coi đó là thành tựu chung của Đảng. Những thành tựu lý luận của đồng chí đã đóng góp to lớn trong xây dựng cơ sở khoa học - thực tiễn cho quá trình hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, và sẽ còn có ý nghĩa lâu dài trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, của dân tộc. Cùng với những thành tựu lý luận to lớn của một nhà lý luận xuất sắc của Đảng, của Nhà nước ta, tinh thần liêm chính, khiêm tốn trong khoa học của đồng chí Tổng Bí thư sẽ là bài học trong sáng, đáng trân trọng để lại cho mai sau./.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn
--------------------
(1), (2), (3), (5), (8), (10), (11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 24, tr. 29, tr. 260, tr. 277 - 278, tr. 26, tr. 164, tr. 164 - 165
(4) Nguyễn Phú Trọng: Hiểu thế nào về bản chất của Đảng ta?, Tạp chí Cộng sản, số tháng 2-1996
(6) Xem: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-be-mac-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-572
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, Hà Nội, t. 10, tr. 63
(9) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, báo Điện tử Chính phủ, ngày 31-1-2024, https://baochinhphu.vn/tu-hao-va-tin-tuong-duoi-la-co-ve-vang-cua-dang-quyet-tam-xay-dung-mot-nuoc-viet-nam-ngay-cang-giau-manh-van-minh-van-hien-va-anh-hung-102240131102655106.htm