Thế giới đang đứng trước thời khắc bước ngoặt của lịch sử trong giai đoạn định hình lại trật tự toàn cầu dưới tác động của đại dịch COVID-19, các chuyển dịch địa - chính trị, địa - chiến lược, địa - kinh tế sau cuộc xung đột Nga - U-crai-na và những tiến bộ nhanh chóng của khoa học - công nghệ, tạo ra nhiều thay đổi to lớn, đặt Việt Nam trước những cơ hội và thách thức lớn đan xen, phức tạp, thậm chí khó nhận diện. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần điều chỉnh căn bản tư duy và hành động để có cách tiếp cận thích ứng.
Các xu thế vận động lớn trên thế giới
Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, khát vọng chung của toàn nhân loại, nhưng sẽ đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn. Quá trình toàn cầu hóa đang đứng trước nhiều khó khăn; sản xuất, tiêu dùng toàn cầu (do các công ty xuyên quốc gia thúc đẩy) vẫn tiếp tục được thúc đẩy, nhưng tốc độ có thể sẽ chậm lại do sự đứt gãy và điều chỉnh các chuỗi cung ứng, xu hướng tăng cường tự chủ chiến lược của các nước, sự phân tách giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa Mỹ/phương Tây với Nga. Quá trình thể chế hóa các mối quan hệ toàn cầu do các quốc gia đàm phán, dỡ bỏ rào cản, thuận lợi hóa các mục tiêu riêng lẻ của từng nhóm lợi ích,... cũng sẽ chậm lại, thậm chí dừng hẳn trong nhiều lĩnh vực do mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn. Khu vực hóa tiếp tục phát triển; các mô hình, hình thức liên kết tiểu đa phương ngày càng nở rộ.
Xu hướng dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục diễn ra với vai trò ngày càng lớn của các nước vừa và nhỏ, các tổ chức đa phương, thông tin đại chúng và công luận; cùng với đó là xu hướng đề cao pháp quyền, luật pháp quốc tế, chủ nghĩa đại nghị và vai trò của nghị viện trong nền chính trị, ngoại giao toàn cầu. Tuy nhiên, tăng chi tiêu cho quốc phòng, thậm chí chạy đua vũ trang có xu hướng gia tăng. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chính trị cường quyền và các hành động đơn phương sẽ vẫn tồn tại.
Các chủ thể phi nhà nước đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong quan hệ quốc tế cũng như quá trình toàn cầu hóa, nổi lên là vai trò của các tập đoàn công nghệ xuyên quốc gia với năng lực vượt trội về vốn, công nghệ, hạ tầng xã hội, vừa đóng vai trò động lực cho quá trình chuyển đổi số, vừa đặt ra các thách thức không nhỏ về chủ quyền dữ liệu và an ninh thông tin của nhiều quốc gia.
Cạnh tranh sức mạnh kinh tế giữa hai nền kinh tế lớn hàng đầu thế giới là Mỹ và Trung Quốc bước vào giai đoạn trường kỳ với mặt trận chủ đạo là cạnh tranh công nghệ (Trong ảnh: Cạnh tranh công nghệ bán dẫn Mỹ - Trung Quốc đang ngày càng tăng nhiệt)_Nguồn: Reuters
Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn phát triển mới, với sự biến đổi mạnh mẽ cả về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất dưới tác động đột phá từ các thành tựu công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đại dịch COVID-19. Những thay đổi của lực lượng sản xuất sẽ tác động mạnh mẽ tới quan hệ sản xuất, thúc đẩy sự dịch chuyển của quan hệ kinh tế thế giới; đồng thời, công nghệ số sẽ làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế, phương thức sản xuất,... tạo ra những phương tiện và phương thức mới về các khía cạnh của lợi ích quốc gia, bao gồm quốc phòng - an ninh, vị thế, ảnh hưởng quốc tế...
Một là, sự biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ của nền sản xuất vật chất. Nếu như trước kia, cấu trúc của nền kinh tế bao gồm ba lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, thì hiện nay xuất hiện những điều kiện của nền sản xuất kinh tế mới, được dự báo sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Nổi lên trong số đó là kinh tế số. Nhân tố mới này không những được vận dụng trong cả ba lĩnh vực sản xuất truyền thống, mà còn trở thành một nền kinh tế chiếm vị trí ngày càng lớn trong tổng sản phẩm nội địa (GDP) của từng quốc gia và toàn cầu.
Hai là, sự biến đổi về công cụ sản xuất. Trong suốt thế kỷ XVIII và XIX, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bùng nổ dẫn đến việc hệ thống máy móc từng bước thay thế cho lao động tay chân của con người. Đến thế kỷ XX, máy móc dần hỗ trợ và tiến tới thay thế cho bộ óc của con người. Bước sang thế kỷ XXI, máy móc đã vươn lên tầm cao mới với việc người máy (rô-bốt) và công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) thay thế trí tuệ của con người ở một chừng mực nào đó và được dự báo trong tương lai sẽ đưa đến những biến đổi sâu sắc về kết cấu giai cấp, cơ cấu nghề nghiệp tại các nước, sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trên phạm vi toàn cầu...
Ba là, sự biến đổi mạnh mẽ phương thức trao đổi thương mại điện tử từ trực tiếp sang gián tiếp chiếm vị trí ngày càng lớn. Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, đồng tiền kim loại và tiền giấy chiếm vị trí độc tôn; tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện và ngày càng phổ biến đồng tiền ảo, tiền kỹ thuật số (loại tiền phi truyền thống) và được dự báo có thể thay thế đồng tiền truyền thống trong tương lai. Bên cạnh đó, phương thức trao đổi trong phạm vi từng quốc gia, từng khu vực đã lan tỏa ra toàn cầu, nhưng đang có xu hướng chững lại, chia cắt và phân tách. Nền kinh tế toàn cầu xuất hiện những nguy cơ với việc các yếu tố mới phát sinh trong khi những đặc điểm định hình cũ vẫn tồn tại; hai trạng thái này cạnh tranh, đan xen lẫn nhau.
Bốn là, xu hướng các nước gia tăng tự chủ chiến lược kinh tế, thúc đẩy dịch chuyển và đa dạng hóa các chuỗi cung ứng theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài thị trường, làm gia tăng xu hướng phân tách và phân mảnh trong cấu trúc kinh tế thế giới. Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh... và các liên kết kinh tế mới ngày càng được chú trọng, được dự đoán sẽ là xu thế chủ đạo, quyết định năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của các quốc gia trong 15 năm tới.
Đời sống chính trị - xã hội quốc tế, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt, toàn diện với sự thay đổi mạnh mẽ trong tương quan so sánh lực lượng dẫn đến nguy cơ đụng độ ngày càng gia tăng đáng kể. Trong 15 năm tới, Mỹ có thể vẫn chiếm ưu thế về sức mạnh tổng hợp quốc gia, nhưng khoảng cách giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng nhanh chóng thu hẹp. Khoảng cách sức mạnh tổng hợp quốc gia giữa hai nước đứng đầu là Mỹ, Trung Quốc và nhóm các cường quốc còn lại, như Nga, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU),... sẽ ngày càng lớn. Cạnh tranh chiến lược nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ/phương Tây với Nga, sẽ gay gắt hơn, nhất là sau cuộc xung đột Nga - U-crai-na.
Quá trình phân tách, cạnh tranh chiến lược sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Nếu như trước đây, mặt cạnh tranh chủ yếu diễn ra trên khía cạnh hệ tư tưởng, an ninh, quân sự,... thì hiện nay, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra với tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi; đa dạng về lĩnh vực (kinh tế, công nghệ, vận tải...) và phạm vi địa lý, quy mô ngày càng mở rộng sang khu vực Bắc Cực, Nam Cực, đại dương, vũ trụ... Xu hướng này sẽ tiếp diễn và chi phối đời sống quan hệ quốc tế ít nhất trong vài thập niên tới; các nước vừa và nhỏ sẽ chịu sức ép “chọn bên” lớn hơn. Trong bối cảnh đó, một số tổ chức quốc tế được cho là sẽ suy giảm vai trò, thậm chí bị giải thể; một số tổ chức quốc tế sẽ tái cấu trúc về thành phần, tập hợp lực lượng, luật chơi; một số tổ chức quốc tế phù hợp với quy luật vận động sẽ ngày càng phát triển.
Các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động nhiều mặt đến an ninh và phát triển của các quốc gia. Việc giải quyết các “điểm nóng” an ninh truyền thống sẽ khó có nhiều tiến triển, trong khi các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng nổi lên gay gắt. Trong 15 năm tới, nguy cơ về xung đột vũ trang, an ninh hạt nhân, những biểu hiện của chính trị cường quyền có thể sẽ tiếp tục diễn ra phức tạp, tinh vi hơn, thách thức vai trò của Liên hợp quốc và độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước vừa và nhỏ. Những vấn đề toàn cầu, như bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, ô nhiễm môi trường... có thể nổi lên gay gắt hơn, cả về tính chất, quy mô, mức độ tác động và không loại trừ khả năng xuất hiện khủng hoảng tương tự đại dịch COVID-19. Việc đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống trở thành nhiệm vụ chủ đạo và thường trực đối với nhiều quốc gia. Các nước đang phát triển và các nhóm dễ bị tổn thương không có đủ năng lực, nguồn lực và khả năng chống chịu sẽ là những đối tượng chịu nhiều tác động tiêu cực nhất từ các thách thức này. Mặt khác, với tính chất ít nhạy cảm hơn so với các vấn đề an ninh truyền thống, đây là lĩnh vực dễ huy động nỗ lực chung, là cơ hội để các nước thúc đẩy mặt hợp tác, kể cả giữa các quốc gia còn mâu thuẫn, tranh chấp trong các vấn đề an ninh truyền thống.
Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tiếp tục trở thành tâm điểm hội tụ lợi ích chiến lược, trung tâm của các liên kết kinh tế mới, đồng thời là trọng điểm của cạnh tranh nước lớn. Trong đó, cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ định hình rõ nét hơn, phản ánh thực tế địa - chiến lược, địa - kinh tế mới tại khu vực. Cục diện “lưỡng siêu, đa cường” trong khu vực với vai trò chủ đạo của Trung Quốc và Mỹ sẽ ngày càng rõ. Hai nước sẽ đẩy mạnh triển khai các chiến lược và các sáng kiến lớn, như Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPS), Sáng kiến “Đối tác về kết cấu hạ tầng và đầu tư toàn cầu” (PGII) của Mỹ; Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI), Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI) của Trung Quốc; tăng cường tập hợp lực lượng qua các cơ chế, như Nhóm QUAD, Liên minh hợp tác an ninh ba bên Mỹ - Anh - Ô-xtrây-li-a (AUKUS), Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm Bạn bè về Sáng kiến Phát triển toàn cầu (GDI)..., đồng thời tiếp tục lôi kéo các nước, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), để kiềm chế và cạnh tranh ảnh hưởng lẫn nhau ở khu vực.
ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng, vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới từ vị trí thứ sáu hiện nay, tuy nhiên sẽ gặp nhiều thách thức từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, sự hình thành các tập hợp lực lượng mới và các vấn đề nội bộ của ASEAN. Trong bối cảnh đó, có thể ASEAN sẽ phải điều chỉnh hoặc linh hoạt trong việc áp dụng các nguyên tắc hiện có để duy trì giá trị chiến lược và vai trò trung tâm. Khu vực tiểu vùng sông Mê Công ngày càng thu hút sự quan tâm của các nước, có thể trở thành trọng điểm mới của cạnh tranh nước lớn.
Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
Trong 15 năm tới, các xu hướng lớn trên được dự báo sẽ tác động đa chiều tới môi trường chiến lược của Việt Nam. Tính bất định, khó dự báo của các khuynh hướng phát triển toàn cầu đưa đến những rủi ro không nhỏ đối với quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Các thách thức sẽ nổi lên gay gắt hơn, song cũng xuất hiện những cơ hội mới.
Về cơ hội
Thứ nhất, thuận lợi căn bản chính là hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam có chỗ dựa tham gia quá trình hội nhập quốc tế một cách bình đẳng, sâu rộng, cũng như cơ hội phát huy giá trị địa - chiến lược của đất nước. Trên nền tảng đó, chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế cơ bản tiếp tục được coi trọng, đề cao. Liên hợp quốc vẫn là thể chế quản trị toàn cầu duy nhất có khả năng quy tụ sự ủng hộ và nguồn lực của tất cả quốc gia. Mặc dù còn những hạn chế, ASEAN vẫn có vai trò quan trọng, được các nước lớn coi trọng, tranh thủ. Chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế tiếp tục là chỗ dựa cho các quốc gia vừa và nhỏ, bao gồm Việt Nam, để có thể đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương. Bên cạnh đó, nằm trong tâm điểm giao thoa chiến lược, giá trị địa - chiến lược của Việt Nam gia tăng, là đối tác quan trọng cần tranh thủ của nhiều nước, mở ra cơ hội để Việt Nam phát huy vị thế ở khu vực và toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo hướng đa cực, đa trung tâm, trọng tâm địa - chính trị - kinh tế thế giới chuyển dịch về khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Sự gia tăng cạnh tranh chiến lược cùng với sự quan tâm, hiện diện của nhiều nước lớn trong khu vực tạo ra thế cân bằng chiến lược có lợi cho Việt Nam trong thúc đẩy quan hệ với các nước lớn. Đây là cơ hội để Việt Nam phát huy giá trị chiến lược, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tranh thủ nguồn lực từ các chiến lược, sáng kiến của các nước lớn phục vụ cho phát triển, cũng như trong xử lý những thách thức an ninh và nâng cao vị thế đất nước.
Thứ hai, Việt Nam ngày càng có tiềm lực để tham gia tương đối bình đẳng (vốn, công nghệ, con người, hợp tác quốc tế...) và tranh thủ các cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam đang đứng trước cơ hội dựa vào đổi mới sáng tạo và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh, năng suất lao động để phát triển đột phá và bứt phá. Việc tận dụng cơ hội này phụ thuộc vào khả năng tái cơ cấu, điều chỉnh mô hình tăng trưởng, gia tăng nội lực, tranh thủ hợp tác quốc tế để củng cố nền tảng và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ phục vụ cho phát triển.
Thứ ba, là một trong những nước có mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) sâu rộng hàng đầu Đông Nam Á, với hầu hết các trung tâm kinh tế chính trị lớn của thế giới, Việt Nam có vị thế để tranh thủ cơ hội mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các nguồn lực chất lượng cao kết hợp với đổi mới thể chế trong nước để đổi mới mô hình và chất lượng tăng trưởng, nâng cao vị trí trong chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng khu vực cũng như toàn cầu. Việt Nam có thể tranh thủ các đối tác, như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, các nước châu Âu về hợp tác ứng phó với các vấn đề toàn cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu, vốn, công nghệ, nâng cao vị trí trong chuỗi cung ứng, cũng như các đối tác có thế mạnh đặc thù về kinh tế số, phát triển xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu...
Lắp đặt cánh quạt gió tại Dự án nhà máy điện gió Ea Namn (tỉnh Đắk Lắk)_Nguồn: trungnamsmc.com.vn
Về thách thức
Một là, tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay đang dịch chuyển và chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực, cạnh tranh nước lớn gia tăng, nhất là cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc và Mỹ - Nga, làm gia tăng tính khó đoán định và đặt ra nhiều thách thức hơn cho môi trường chiến lược của Việt Nam. Các nước lớn ở từng thời điểm và vấn đề cụ thể có thể gia tăng cách hành xử đi ngược lại những nguyên tắc căn bản của luật pháp quốc tế hiện hành, như tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, bình đẳng cùng có lợi, quyền tự quyết của các dân tộc. Cạnh tranh nước lớn quyết liệt hơn có thể làm gia tăng căng thẳng và nguy cơ xung đột tại những “điểm nóng” trên thế giới. Đồng thời, không loại trừ nguy cơ các nước lớn thỏa hiệp với nhau, phương hại đến lợi ích quốc gia của các nước vừa và nhỏ liên quan, trong đó có Việt Nam. Một số nước có xu hướng tuân thủ luật pháp quốc tế một cách chọn lọc, diễn giải luật pháp quốc tế theo lợi ích của quốc gia, dân tộc mình... Bối cảnh đó tác động mạnh mẽ tới môi trường hòa bình, an ninh, phát triển của Việt Nam. Chưa bao giờ môi trường an ninh của Việt Nam lại chịu sự tác động, thách thức từ nhiều vấn đề phức tạp, đa chiều, đa hướng như bây giờ, đòi hỏi Việt Nam phải tính toán kỹ và xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nhân tố, như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, ASEAN...
Hai là, tập hợp lực lượng trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng tạo ra thách thức mới khi Việt Nam phải cân nhắc khả năng và mức độ tham gia, cũng như rơi vào thế khó xử trong quan hệ song phương với từng nước lớn. Việc các nước lớn đẩy mạnh cạnh tranh tập hợp lực lượng, thiết lập các cơ chế, liên minh mới tại khu vực có thể khiến vai trò trung tâm của ASEAN bị thách thức, gia tăng chia rẽ nội khối. Sau 30 năm phát triển kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, ASEAN đang bước vào giai đoạn mới với nhiều thách thức hơn cả từ bên trong và bên ngoài; việc duy trì đoàn kết, đồng thuận ngày càng khó khăn. Bên cạnh sức ép từ cạnh tranh chiến lược nước lớn, sự ra đời của các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế mới (QUAD, AUKUS...) được cho là sẽ cạnh tranh và thách thức vai trò trung tâm của ASEAN. Chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế cũng chịu nhiều thách thức bởi chủ nghĩa đơn phương, cường quyền nước lớn.
Ba là, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu nếu không kịp thời nắm bắt các xu thế mới và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nguy cơ này gia tăng khi nền kinh tế đang phải đối mặt với những khó khăn do đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, bên cạnh một số hạn chế chưa được khắc phục. Tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam cũng đặt ra không ít thách thức trong giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế nước ta có độ mở cao, làm gia tăng nguy cơ bị tổn thương trước những diễn biến bất lợi từ bên ngoài.
Bốn là, các thách thức an ninh phi truyền thống, như các loại dịch bệnh mới nổi, biến đổi khí hậu, an ninh mạng, an ninh nguồn nước, nước biển dâng,... sẽ tác động ngày càng lớn tới môi trường chiến lược của Việt Nam, đặt ra các thách thức không nhỏ đối với đất nước trong việc xử lý và ứng phó trong khi nhận thức, năng lực thể chế, chính sách và nguồn lực dành cho việc đối phó với các thách thức này còn hạn chế.
Một số vấn đề đặt ra đối với lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam
Từ những phân tích dự báo các xu thế lớn trên thế giới tác động đến môi trường chiến lược của Việt Nam, có thể thấy, để hóa giải những thách thức và chủ động ứng phó với bất lợi; đồng thời, đón nhận những làn sóng cơ hội khi có điều kiện, đặt ra những vấn đề về nhận thức, tư duy và hành động đối với Việt Nam.
Về nhận thức, tư duy: Theo giới phân tích, Việt Nam cần nhận diện đầy đủ, chính xác vấn đề lợi ích quốc gia - dân tộc. Với sự phát triển của đất nước và sự vận động khách quan của môi trường quốc tế, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam không ngừng được mở rộng cả về nội hàm và phạm vi. Bên cạnh đó, Việt Nam cần có “tư duy hội nhập” phù hợp với tình hình mới. Chuyển tư duy hội nhập từ gia nhập, tham gia sang tư duy liên kết với tâm thế chủ động, linh hoạt, mở rộng không gian hoạt động đối ngoại để tranh thủ mọi cơ hội cho an ninh, phát triển.
Bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực để nâng cao thế và lực của đất nước trong 15 năm tới. Hội nhập quốc tế là phương thức để kết hợp nội lực với ngoại lực, là tiền đề để đặt Việt Nam vào vị trí tối ưu nhất giữa các xu thế và tập hợp lực lượng, từ đó huy động hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, phát huy tối đa thế mạnh bên trong, mở rộng không gian phát triển của đất nước. Độc lập và tự chủ là hai mặt thống nhất (nhưng không đồng nhất) của chủ quyền quốc gia; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng, vừa tạo tiền đề, bổ sung cho nhau, vừa thống nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu, lợi ích căn bản của đất nước, trước hết là mục tiêu an ninh và phát triển, sau đó là nâng tầm vị thế mở rộng ảnh hưởng quốc tế. Nắm vững quan điểm kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ thuyết chính trong gắn kết giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là tiếp cận toàn diện về độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, trong đó dựa vào sức mình, dựa vào nội lực đất nước là chính, khơi dậy và phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực. Hội nhập quốc tế để phục vụ độc lập, tự chủ; độc lập, tự chủ là nền tảng cho hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và hiệu quả. Để bảo đảm hội nhập quốc tế có hiệu quả, cần phát huy độc lập, tự chủ trong việc quyết định chiến lược tổng thể, mức độ, phạm vi, lộ trình và bước đi hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực, từng vấn đề, từng chủ thể cụ thể.
Về thực tiễn triển khai
Một là, duy trì quan hệ cân bằng, hài hòa với các quốc gia láng giềng, các nước lớn trong một thế giới đan xen lợi ích phức tạp, ứng xử phù hợp trước xu thế chuyển dịch trọng tâm địa - chiến lược, địa - kinh tế sang khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Hai là, giữ vững, xử lý hài hòa hai mục tiêu tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo đảm độc lập, tự chủ.
Ba là, nâng cao công tác tham mưu, dự báo chiến lược, phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế trở thành sự nghiệp của toàn dân, với sự tham gia ngày càng tích cực của toàn hệ thống chính trị.
Bốn là, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc kiến tạo các điều kiện thuận lợi bên ngoài cho phát triển; huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Năm là, dành ưu tiên, quan tâm cao và nguồn lực thích đáng để thực thi đồng thời nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, trong đó chú trọng xử lý vấn đề chủ quyền và an ninh trên biển, nhất là Biển Đông.
Sáu là, thúc đẩy đồng bộ quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, tăng cường đan xen lợi ích và tin cậy chính trị, trong đó, ưu tiên các quốc gia láng giềng, khu vực, các nước lớn, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. Chủ động hợp tác với các nước trong khu vực, các nước có tiềm lực để đóng góp kiến tạo cục diện cân bằng, đa cực, đa trung tâm ở khu vực cả về quốc phòng, an ninh, chính trị - ngoại giao và kinh tế./.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn