Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo, đóng góp ý kiến về dự thảo báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Cuộc họp có sự tham dự của lãnh đạo, đại diện một số cơ quan Đảng, Quốc hội, các bộ, ngành Trung ương, Hội Nông dân Việt Nam, các hiệp hội, chuyên gia, nhà khoa học, kết nối trực tuyến tới UBND các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Phó Thủ tướng đề nghị việc đánh giá kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW phải bám sát những tồn tại, hạn chế được nêu đã khắc phục đến đâu; đồng thời rà soát, đánh giá sát mục tiêu, tổ chức thực hiện, đặc biệt là nội dung liên quan đến thể chế, chính sách thị trường tài chính, huy động nguồn lực, đầu tư nhà nước và xã hội, cập nhật các vấn đề mới…
Chuyển từ sản xuất sang kinh tế đa giá trị
Theo dự thảo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, 14/14 chỉ tiêu bảo đảm tiến độ thực hiện mục tiêu đến năm 2030.
Trong đó, 2 chỉ tiêu vượt (tốc độ tăng trưởng GDP ngành; tỷ lệ che phủ rừng); 8 chỉ tiêu có khả năng đạt và vượt (tốc độ tăng năng suất lao động nông nghiệp; các chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới; tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; đầu tư ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn); 4 chỉ tiêu cần phấn đấu và có các giải pháp đột phá, hiệu quả để đạt được mục tiêu đến năm 2030 (thu nhập dân cư nông thôn; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý theo quy định; tốc độ tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ nông thôn).
Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng báo cáo tại cuộc họp - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nông nghiệp và môi trường đã bám sát, thể chế hóa cơ bản đầy đủ các chủ trương của Đảng và không ngừng được hoàn thiện, cập nhật; tạo lập được hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ; vừa xử lý "điểm nghẽn", khơi thông nguồn lực kiến tạo phát triển, vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Nông nghiệp được cơ cấu lại thực chất, hiệu quả hơn, chuyển biến tích cực theo thế mạnh của vùng, miền và nhu cầu thị trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Toàn ngành đã chuyển đổi tư duy từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp, từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành, tích hợp đa giá trị; chuyển từ chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển các chuỗi ngành hàng.
Công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn phát triển mạnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, góp phần đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ giữa các khâu sản xuất và theo chuỗi, phát triển công nghiệp chế biến nông sản.
Có sự bứt phá thành công của các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, trong đó hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt. Liên kết chuỗi sản xuất, kinh doanh được đổi mới phù hợp với thị trường, sản xuất hàng hóa lớn; hình thành nhiều chuỗi nông sản an toàn được chứng nhận.
Lực lượng doanh nghiệp tăng mạnh, với trên 18.700 doanh nghiệp trực tiếp đầu tư sản xuất nông nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn khẳng định vai trò nòng cốt trong chuỗi giá trị, trung tâm thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Giai đoạn 2021 - 2025, kết quả ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, quản lý đã góp phần tăng hiệu quả kinh tế khoảng 30%. Chuyển đổi số đã được ứng dụng trong mọi lĩnh vực, từ quản lý đến sản xuất, tiêu thụ.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản liên tục đạt mức kỷ lục, 11 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó 7 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 3 tỷ USD.
Diện mạo nông thôn ngày càng thay đổi, thu hẹp khoảng cách với đô thị, nâng cao toàn diện đời sống nhân dân, hệ thống hạ tầng thiết yếu ở nông thôn được hoàn thiện, từng bước hiện đại hóa.
Du lịch nông thôn có bước phát triển tích cực, gắn với bản sắc văn hóa và chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP), góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng trong bảo tồn cảnh quan, môi trường và văn hóa.
Lực lượng nông dân chuyên nghiệp ở khu vực nông thôn được hình thành. Nhiều nông dân giỏi đã trở thành "đầu tàu" dẫn dắt, vươn lên làm giàu, nắm bắt công nghệ, từng bước nâng cao năng suất lao động của khu vực nông thôn.
Tài nguyên thiên nhiên được quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo đảm công bằng, hợp lý, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác phòng, chống thiên tai chuyển mạnh sang chủ động phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Những rào cản, nút thắt
Các ý kiến tại cuộc họp cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực "tam nông chưa khắc phục được triệt để, như: Tăng trưởng nông nghiệp chưa ổn định; chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm chưa cao; đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao chưa nhiều; cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu.
Một số mục tiêu đến năm 2030 tại Nghị quyết số 19-NQ/TW không còn phù hợp với tình hình bối cảnh hiện nay cần điều chỉnh cho phù hợp để góp phần vào tăng trưởng "2 con số"; thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn vẫn chưa có chuyển biến rõ rệt, có nơi có chiều hướng nghiêm trọng (ô nhiễm nguồn nước do nước thải, rác thải sinh hoạt, nước thải từ các làng nghề, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn…).
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa thật đầy đủ, đúng mức nên có lúc, có nơi còn thiếu chủ động, chưa sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 19.
Sự phối hợp giữa các cấp ủy, chính quyền, bộ, ngành, cơ quan liên quan còn thiếu chặt chẽ, chưa hiệu quả; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, hệ thống dịch vụ công chưa theo kịp yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Một số cơ chế, chính sách thiếu nguồn lực thực hiện, chưa sát thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung nhất là về đất đai, đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, tổ chức sản xuất.
Hình thành hệ sinh thái nông nghiệp – công nghệ – tài chính
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát phát biểu - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho rằng bối cảnh mới đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cao hơn rất nhiều, trong đó nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 10%/năm để cùng cả nước bứt phá trở thành quốc gia phát triển.
Trong khi đó, nguồn lực cho nông nghiệp ngày càng hạn hẹp: Đất nông nghiệp giảm nhanh, lao động nông thôn sụt giảm mạnh và đang già hóa. Vì vậy, con đường duy nhất là dựa vào khoa học công nghệ và chuyển dịch cơ cấu sang sản phẩm, ngành hàng có giá trị và hiệu quả cao hơn.
Nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp, GS.TS. Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Khoa học (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) cho rằng nông nghiệp cần được nhìn nhận như một ngành công nghiệp công nghệ cao, nơi hội tụ những thành tựu tiên tiến nhất của trí tuệ nhân tạo (AI), số hóa, chế biến… Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư cho chế biến, số hóa và xây dựng vùng nguyên liệu gắn với "lõi đô thị" nhằm hình thành hệ sinh thái nông nghiệp – công nghệ – tài chính.
Một nội dung quan trọng khác là đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nông dân, theo hướng thực hành, gắn công nghệ số và thị trường, hình thành thế hệ "thanh nông tri điền" – nông dân 4.0 làm chủ sản xuất. Doanh nghiệp tư nhân phải là đầu tàu đổi mới nông nghiệp.
GS.TS Trần Đức Viên kiến nghị cần có chương trình quốc gia khôi phục đất gắn với sản xuất xanh, tín chỉ carbon; xây dựng chiến lược "ngoại giao nông nghiệp" để ứng phó với cạnh tranh và khủng hoảng lương thực toàn cầu.
Lãnh đạo Hội Nông dân Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng nông dân, hợp tác xã phải được đặt ở vị trí trung tâm của phát triển nông nghiệp, nông thôn; cần có chính sách thu hút lao động trẻ, trí thức, sinh viên về nông thôn lập nghiệp. Bên cạnh việc phát triển kinh tế, chúng ta cần xây dựng chính sách phát triển xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa làm nông thôn thay đổi mạnh, hình thành xã hội đa tầng, không còn chủ yếu là nông dân.
Đóng góp ý kiến tại cuộc họp, lãnh đạo các tỉnh Hưng Yên, Hà Tĩnh, Lâm Đồng, An Giang kiến nghị một số giải pháp trọng tâm cho lĩnh vực nông nghiệp: Ổn định giá vật tư, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất; hỗ trợ mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản; điều chỉnh, bổ sung cơ chế khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là nông nghiệp công nghệ cao và gắn với kinh tế biển.
Các tỉnh cũng đề xuất chính sách tín dụng thông thoáng, ưu đãi lãi suất để nông dân và hợp tác xã tiếp cận vốn thuận lợi; tăng cường đào tạo nhân lực, chuyển giao tiến bộ khoa học – công nghệ; ban hành cơ chế thu hút, đãi ngộ cán bộ nông nghiệp về cơ sở.
Đồng thời, Trung ương cần ưu tiên bố trí nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, sớm ban hành bộ tiêu chí cụ thể và điều chỉnh phương thức quản lý phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.