1. Tạo cơ sở để tiến hành thể chế hóa về mặt nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
a) Góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật ở nước ta hiện nay
Theo Đảng ta và quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm và nhất quán là một trong những nhiệm vụ trung tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu khách quan của việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tính cấp thiết và tính khách quan đó được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ ra như sau:
Một là, bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển, lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”[1]. Điều đó chứng tỏ rằng, chính sách, pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
|
Các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần làm sâu sắc hơn, cụ thể hơn sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.
|
Nếu không xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật với chất lượng tốt sẽ không tạo ra được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tồn tại và phát triển, thì các chủ trương, đường lối nhằm phát huy nội lực, tăng nhanh vốn đầu tư trong nước và nhất là từ nước ngoài, nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân... sẽ tiến triển rất chậm chạp, khó đi vào cuộc sống và khó trở thành hiện thực. Có thể khẳng định, không có hệ thống thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi và minh bạch thì không thể phát huy được mọi nguồn lực, không có vốn để đầu tư, không thể có công nghệ cao để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, không thể có quản lý tiên tiến, có hiệu lực và hiệu quả, không thể có phương tiện tổ chức và thực hiện các chính sách xã hội trên quy mô cả nước, không thể có dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như đường lối của Đảng và đồng chí Tổng Bí thư chỉ ra. Thực tiễn chỉ ra rằng, nhiều nước vốn không giàu có về tài nguyên, nhưng đã đi lên một cách nhanh chóng nhờ phát huy nguồn lực con người và có môi trường pháp lý tốt.
Nền kinh tế thị trường vốn là nền kinh tế với các quan hệ rất đa dạng, phong phú, năng động và phức tạp. Ở nước ta, nền kinh tế đó lại đòi hỏi phải phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó càng đòi hỏi vai trò to lớn của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế, nhưng hạn chế được và tiến tới loại bỏ các yếu tố tự phát, ngẫu nhiên tuỳ tiện: ngăn ngừa được các yếu tố gây mất ổn định, rối loạn, khủng hoảng, thiết lập được trật tự các quan hệ kinh tế ổn định và phát triển bền vững.
Hai là, bắt nguồn từ đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện đòi hỏi đó, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật, không thể không đề cao vai trò của các yếu tố này trong hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì, Nhà nước pháp quyền, theo thực tiễn phát triển cho thấy, trước hết là một nhà nước có hệ thống thể chế pháp luật làm công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân[2] là một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Ở nước ta, trong mối quan hệ đối với Đảng lãnh đạo, pháp luật chính là phương tiện thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, làm cho chủ trương, đường lối đó có hiệu lực và được thực thi trên quy mô toàn xã hội. Trong mối quan hệ với Nhà nước, pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân, là phương tiện quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả đối với mọi mặt đời sống xã hội. Trong mối quan hệ với các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, pháp luật là phương tiện bảo đảm cho quần chúng nhân dân lao động tham gia quản lý Nhà nước và hệ thống chính trị, quản lý xã hội thông qua các tổ chức của mình. Pháp luật là phương tiện thể chế, ghi nhận sự phát triển của nền dân chủ, bảo đảm cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Có thể nói, đối với toàn bộ hệ thống chính trị, pháp luật là phương tiện hàng đầu để thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống, là nhân tố bảo đảm cho các thành tố của hệ thống hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp, thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, là thước đo về tính hợp pháp, hợp đạo lý của các thành viên hoạt động trong hệ thống đó. Đối với công dân, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân và đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do ghi nhận một cách chính thức các giá trị của con người mà pháp luật trở thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các vấn đề về an sinh xã hội, về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, tự do, bình đẳng và công bằng đều gắn chặt với vai trò điều chỉnh của pháp luật.
Có thể nói, pháp luật là phương tiện để đề cao nhân tố con người và phát huy sức mạnh của nó trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước. Vì vậy, mức độ hoàn thiện pháp luật và tuân thủ pháp luật trở thành một tiêu chí để đánh giá tính pháp quyền của một Nhà nước.
Ba là, bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng và phát triển các mối quan hệ quốc tế theo đường lối mở cửa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện. Đây vừa là đòi hỏi, vừa là một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Nhà nước ta. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, không thể không xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật, không thể không đề cao vai trò của pháp luật trong mối quan hệ quốc tế. Bởi vì, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, một mặt, đáp ứng đòi hỏi hình thành môi trường pháp lý cho hội nhập quốc tế, tạo ra khả năng mới cho sự phát triển; mặt khác, đáp ứng yêu cầu tạo lập cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh tình hình quốc tế đang tiếp tục có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; vấn đề toàn cầu hóa chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt, các thế lực thù địch đang ra sức tìm mọi cách để chống phá ta trên mọi lĩnh vực với âm mưu và thủ đoạn ngày càng thâm độc, cách thức ngày càng đa dạng, tinh vi và vô cùng nguy hiểm, làm cho nguy cơ mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ngày càng cao, đe dọa sự an nguy của Đảng, hệ thống chính trị và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
b) Cung cấp hệ thống tư tưởng mang tính nguyên tắc trong chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Các quan điểm và nguyên tắc là những tư tưởng chủ đạo mang tính gợi mở, tạo cơ sở, nền tảng chính trị và phản ánh quy luật hình thành, vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng trong đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật cũng là một hiện tượng của đời sống xã hội, lại là một trong những vấn đề rất phức tạp, với những đặc thù riêng có. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật phải dựa trên những quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo nhất định. Ở nước ta, xây dựng chính sách, pháp luật là hoạt động biến ý chí của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng thành ý chí của Nhà nước, phù hợp với đường lối phát triển của Đảng, điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong từng thời kỳ và phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại. Vì thế, hoạt động xây dựng pháp luật có những nét đặc thù riêng có. Trước hết, xây dựng chính sách, pháp luật là hoạt động tìm tòi, phân tích, chọn lọc. Đó là quá trình tìm tòi các giá trị của xã hội có, xã hội cần phải xuất phát từ những quan điểm, tư tưởng có tính nguyên tắc mang tính chỉ đạo trong đường lối, chủ trương của Đảng. Các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cung cấp một hệ thống các tư tưởng có tính nguyên tắc chỉ đạo cho Nhà nước xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau đây:
Trước hết, để hình thành chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải nhận thức đúng đắn, sâu sắc về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế ngày càng hoàn thiện và phát triển. Các thể chế phát triển kinh tế được xây dựng dựa trên nhận thức ngày càng sâu sắc mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, các thể chế kinh tế, dân sự và lao động đều được xây dựng và hoàn thiện nhằm hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. “Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội”[3]. Đây là tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Hai là, phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đây là tư tưởng chỉ đạo xây dựng các cơ chế, chính sách và pháp luật về kinh tế và xã hội. Các chính sách pháp luật phát triển kinh tế - thành quả của việc thực hiện chính sách, pháp luật về kinh tế phải phục vụ việc phát triển xã hội và ngược lại... Vì vậy, khi xây dựng chính sách, pháp luật về kinh tế không chỉ tập trung vào kinh tế, nhằm đạt được trình độ phát triển cao rồi mới có chính sách, phát triển về xã hội, mà mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Ba là, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Đây là quan điểm mang tính nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển văn hóa. Xuyên suốt nội dung của chính sách, pháp luật về văn hóa là xây dựng một “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn”[4] đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội và phải trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển của đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, mọi chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc” thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đây là quan điểm mang tính nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng chính sách, pháp luật trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đến pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đề cao quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, vai trò chủ thể của nhân dân, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” phải thấm sâu trong việc xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và đảm bảo cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa là quan điểm mang tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta; trong đó, đặc biệt quan trọng là hoạt động xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xa rời đường lối, chủ trương của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật là nguy cơ dẫn đến chệch hướng.
2. Củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vào cuối những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội lâm vào tình trạng thoái trào do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản, bao trùm nhất là nhận thức không đầy đủ về lý luận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự khủng hoảng kinh tế kéo dài ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa đã cho thấy rõ những khuyết điểm, sai lầm, những bài học kinh nghiệm xương máu mà các đảng cộng sản cầm quyền buộc phải suy ngẫm và nhận thức lại, nhất là những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Trong khi đó, cũng không thể phủ nhận rằng, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh lớn và thích ứng nhanh chóng, làm cho nền sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ, che lấp những khuyết tật vốn có của chính chủ nghĩa tư bản. Đó là lý do mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới.
Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện khó khăn chồng chất, lại chịu tác động mạnh mẽ bởi “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, cùng với những sai lầm về nguyên tắc nên đã dẫn đến thất bại ở một số nước xã hội chủ nghĩa và nhiều đảng cộng sản mất vai trò cầm quyền. Song, một số nước tiến hành cải cách, đổi mới thành công và có những bước tiến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực mà cả thế giới khâm phục. Bên cạnh đó, vẫn còn có đảng cộng sản cầm quyền chưa nhận thức hết được tính tất yếu phải thay đổi, thậm chí quá thận trọng trong quá trình đổi mới nên tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn, thử thách mà chưa tìm thấy lối ra. Thực tiễn cho thấy rằng, cải tổ, cải cách, đổi mới không phải là nguyên nhân dẫn đến thất bại; sự thất bại của một số mô hình chủ nghĩa xã hội trên thế giới trong thế kỷ XX là do những sai lầm về mặt nhận thức và cách thức tiến hành trong lãnh đạo công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết đối với các đảng cộng sản hiện nay là phải tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phân tích, lý giải để rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, củng cố niềm tin của nhân dân đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên phía trước.
Đối với nước ta, kết quả của công cuộc đổi mới là rõ ràng, có sức thuyết phục không chỉ đối với nhân dân trong nước, mà được bạn bè các nước trên thế giới thừa nhận. Song, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn, nguy cơ và thách thức mới. Nhiều nội dung cơ bản của lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là những vấn đề hệ trọng cần tiếp tục được làm rõ hơn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học, lý giải một cách thuyết phục hơn nữa như Tổng Bí thư đã đưa ra: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?[5]. Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Với sự trải nghiệm của một nhà lý luận và sự am hiểu thực tiễn sâu sắc, cùng phương pháp luận khoa học, kết hợp lịch sử cụ thể, phân tích, tổng hợp và khả năng khái quát cao, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành thời lượng đáng kể để trả lời từng câu hỏi nêu trên:
“Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?”[6].
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam kể từ khi ra đời cho đến những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[7]. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[8].
Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu đối với toàn Đảng không chỉ trung thành mà phải vận dụng sáng tạo, đặc biệt là phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới: “Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”[9].
Với tư duy biện chứng, sắc sảo và bằng những minh chứng lịch sử hơn 90 năm qua của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, góp phần quan trọng củng cố niềm tin của nhân dân, giữ vững định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
|
Các cuốn sách cũng góp phần tổng kết, phát triển lý luận của Đảng về đổi mới, tiếp tục xây dựng hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH.
|
3. Làm cơ sở để đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch, phản động, cơ hội chính trị
Những kẻ thù địch, phản động, cơ hội chính trị chống phá đảng cộng sản chưa bao giờ từ bỏ mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ngay từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời năm 1848 đến nay. Những luận điểm của các thế lực thù địch luôn hết sức nguy hiểm, nhất là khi chủ nghĩa xã hội gặp những khó khăn, thử thách.
Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, “từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, họ cho rằng chúng ta đã chọn sai đường, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa!”[10].
Để làm cho nhân dân hiểu rõ con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã chọn, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực chất là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư đã phân tích khách quan cả ưu điểm và khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản. Với nhãn quan duy vật biện chứng, khách quan, khoa học và cách lập luận sắc sảo, đồng chí đã chỉ rõ những ưu điểm đó chỉ là kết quả trước mắt của sự thay đổi để thích ứng với điều kiện mới, song vấn đề quan trọng là bản chất của chủ nghĩa tư bản thì không hề đổi thay. Tổng Bí thư còn minh chứng thêm bằng những vấn đề diễn ra hiện nay đang làm cho thế giới bất ổn, như các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển khi hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn.
Với phương pháp phân tích, so sánh, đặc biệt là cách đặt vấn đề một cách khách quan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cung cấp những thông tin chính xác, lập luận khoa học để làm rõ những vấn đề thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản, để không bị mắc mưu của các thế lực thù địch.
Với quan điểm thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và với phương pháp lịch sử cụ thể, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích hoàn cảnh lịch sử Việt Nam để làm rõ những khó khăn khách quan khi lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đặt ra yêu cầu kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại: “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản.
Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”[11]. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo và cầm quyền, khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, Đảng không chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại. Đồng chí Tổng Bí thư nhận định: “Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”[12].
Với tư duy khoa học, khả năng phân tích, lý giải về đường lối của Đảng, chúng ta càng hiểu thêm sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với những khó khăn phức tạp, trân trọng những kết quả đạt được và khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí trong thời kỳ mở cửa, hợp tác quốc tế ngày càng toàn diện và sâu sắc.
Những quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch trên lĩnh vực tư tưởng hiện nay khi các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm qua là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội, với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng - sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trước tình hình đó, việc làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị tư tưởng quan trọng, là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
4. Góp phần đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả nhiều nội dung thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều nhiệm kỳ đại hội Đảng gần đây, công tác xây dựng Đảng luôn được coi là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng xác định Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[13] và nhất là phải “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”[14].
Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh sứ mệnh chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Trong nhiều tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đều đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ “then chốt” là xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Những thành tựu của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó được Tổng Bí thư minh chứng qua suốt chiều dài lịch sử. Đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tại Đại hội XIII của Đảng, một lần nữa, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”[15]. Đồng thời, những hạn chế, yếu kém của cách mạng Việt Nam cũng có trách nhiệm của Đảng lãnh đạo. Điều này cũng được Tổng Bí thư thẳng thắn thừa nhận: Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên[16].
Đồng chí Tổng Bí thư đã nêu và phân tích cả nguyên nhân khách quan và chủ quan của vấn đề này: “Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”[17].
Trong nhiều bài viết, đồng chí Tổng Bí thư trăn trở nhiều nhất về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng. Không thể phủ nhận công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả cụ thể rõ rệt rất quan trọng, toàn diện, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự đã trở thành phong trào, xu thế, được cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận.
Tuy nhiên, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt về sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt của lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống... gây bức xúc xã hội. Đồng chí chỉ rõ: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, bệnh thành tích, tư duy nhiệm kỳ, lạm quyền, lộng quyền, vi phạm nguyên tắc tổ chức đảng đang còn nghiêm trọng. Sự bảo thủ, trì trệ; tư duy cục bộ, lợi ích nhóm; sự tha hóa quyền lực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tình trạng tham nhũng, lãng phí, xuống cấp về mặt đạo đức và trách nhiệm xã hội,... cũng là những thứ giặc nội xâm vô cùng nguy hiểm, đe dọa vai trò lãnh đạo và sứ mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, vận mệnh của đất nước, dân tộc[18].
Hệ thống giải pháp về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề ra có tính đồng bộ, quyết liệt và khả thi. Cụ thể là:
Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức.
Giáo dục tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên phải được coi trọng thường xuyên và phải kiên trì bởi vai trò của đạo đức - cái gốc của người cách mạng. “Điều rất cơ bản, rất then chốt có ý nghĩa quyết định cho mọi công việc, đó là phải làm sao giữ cho được, làm cho đúng theo tư cách, đạo đức, danh dự của người đảng viên, người cán bộ cách mạng, đặc biệt là những người lãnh đạo... Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống”[19]. Đồng chí nhấn mạnh: “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho có ý nghĩa, để không phải xót xa ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”[20]. Đồng thời, phải kiên trì, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
|
Với những giá trị to lớn, các cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa đất nước phát triển ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc.
|
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện thể chế để “không thể”, “không dám” tham nhũng.
Đồng chí Tổng Bí thư luôn nhấn mạnh đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước có hệ thống pháp luật hiện đại, chặt chẽ, và thực hiện nghiêm minh. Vì thế, cần phải “đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và tổ chức thi hành nghiêm túc, bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đất nước nhanh và bền vững”[21]. Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, để kiểm soát tốt quyền lực chính trị thì trước hết phải xây dựng được thể chế đầy đủ, chặt chẽ, làm căn cứ để thực hiện phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Người có chức, có quyền không thể tham nhũng được nếu có các quy định pháp lý chặt chẽ, đầy đủ, công khai, minh bạch và được kiểm tra, giám sát thường xuyên. Vì vậy, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng”[22]. Đồng thời, cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực, hoàn thiện quy chế nhằm kiểm soát quyền lực, “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. “Đặc biệt là cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ, chính quyền các địa phương... với các cơ quan, đơn vị của Đảng, Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, hệ thống các cơ quan tư pháp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; bảo đảm cả hệ thống tổ chức bộ máy luôn luôn vận hành một cách đồng bộ, thống nhất; tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “quyền anh, quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây””[23].
Thứ ba, kiên quyết xử lý tham nhũng không có “vùng cấm”, không có “ngoại lệ”, không có “hạ cánh an toàn”.
Với trách nhiệm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng” và kiên quyết đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đồng chí Tổng Bí thư nhiều lần khẳng định rõ và nhất quán quan điểm: Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng được chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả, tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng, khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước trong chống tham nhũng. Phòng, chống tham nhũng với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không bị tác động không trong sáng bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào... Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực; xử lý đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật hình sự đối với những người vi phạm, bất kể đó là ai[24]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh”[25].
Thứ tư, phát huy vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Muốn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả, giải pháp quan trọng nữa là sự làm gương, nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Ngay bản thân đồng chí Tổng Bí thư cũng là một người mẫu mực nêu gương đạo đức thanh liêm, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nói đi đôi với làm. Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Việc xử lý nghiêm nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm. Kỷ luật một vài người để cứu muôn người và sẽ còn phải tiếp tục làm quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới, kiên quyết loại bỏ những phần tử hư hỏng, thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức[26].
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ ngành thanh tra, kiểm tra đảng có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu được giao.
Tổng Bí thư cho rằng, người kiểm soát quyền lực cũng phải chịu sự kiểm soát quyền lực: Để hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong bối cảnh hiện nay, điều quan trọng quyết định là phải tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra; phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Các cơ quan kiểm tra cùng với các cơ quan nội chính, thanh tra, điều tra, kiểm sát, xét xử phải thật sự là những “thanh bảo kiếm” sắc bén, có phẩm chất đạo đức trong sáng, trong sạch, chí công vô tư, có dũng khí đấu tranh ngăn chặn những việc làm sai trái, lợi ích nhóm, mưu lợi cá nhân. Cán bộ thanh tra, kiểm tra phải là những chiến sĩ kiên cường, có bản lĩnh, nắm chắc các cơ chế, chính sách, Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước; đặc biệt là phải có dũng khí đấu tranh, chính trực và hơn ai hết phải liêm, phải sạch. Không liêm, không sạch thì không nói được ai, không kiểm tra, giám sát, không kỷ luật được người khác. Phải chống tiêu cực ngay trong các cơ quan và cá nhân những người làm công tác chống tiêu cực. Phải không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức; luôn phấn đấu, rèn luyện tác phong công tác, không kiêu ngạo, không say sưa với thành tích, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, tâm huyết, kiên quyết và trách nhiệm cao trong nghề nghiệp; phải thực sự gương mẫu trong cuộc sống và công tác, thực sự công tâm, khách quan, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải là những “Bao Công” trong thời đại mới. Nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian tới hết sức nặng nề. Cán bộ thanh tra, kiểm tra luôn phải đối mặt, đấu tranh với những sai phạm, tiêu cực của đồng chí, đồng đội và cả những người thân; luôn phải đấu tranh với chính mình để không phạm phải những cám dỗ đời thường. Đó là thách thức không nhỏ[27].
Để xây dựng được đội ngũ “Bao Công”, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Xây dựng, hoàn thiện các quy chế, quy định để ngăn ngừa có hiệu quả sự tác động tiêu cực, không lành mạnh vào hoạt động của các cơ quan này. Đặc biệt, phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thật sự có bản lĩnh, thật sự liêm chính, trong sạch; không chịu bất cứ sức ép không trong sáng nào của tổ chức, cá nhân; bất cứ sự cám dỗ, mua chuộc nào của những kẻ phạm tội. Có chính sách đãi ngộ hợp lý, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nỗ lực phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Phải phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng, tiêu cực[28].
Thứ sáu, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “chống giặc nội xâm”, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, “không ngừng”, “không nghỉ” ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm[29]. Đồng chí yêu cầu Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, đoàn viên mà còn phải tiếp tục chủ động tham gia sâu hơn, toàn diện, hiệu quả hơn và động viên nhân dân tích cực tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Phát huy vai trò tích cực trong tham gia kiểm soát quyền lực, giám sát để quản lý xã hội công khai, minh bạch[30].
5. Thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ trong xã hội Việt Nam hiện nay
Phát triển và tiến bộ xã hội luôn được đặt ra cùng với sự tồn tại của con người, của nhân loại trong quá trình sống. Phát triển và tiến bộ xã hội phản ánh sự vận động đi lên của xã hội loài người. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với Việt Nam, không chỉ mang mục tiêu kinh tế đơn thuần, mà hơn thế, là mục tiêu mang tính xã hội: ngày càng làm cho mỗi người dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mọi người có cơ hội phát triển những năng lực của mình. Ở một chừng mực nhất định, ngoài mục tiêu kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu xã hội đáng tự hào. Đó là vấn đề giảm nghèo, gia tăng các cơ hội cho mỗi người dân trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản của xã hội, hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Chỉ số phát triển con người cũng ngày càng tăng.
Những thành công trên là do sự lãnh đạo sáng suốt, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự đồng lòng, quyết tâm, ủng hộ tích cực của các tầng lớp nhân dân; bên cạnh đó, không thể không kể đến vai trò của các nhà lãnh đạo, người đứng đầu, của những nhà trí thức... Những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua các tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư đã góp phần thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ trong xã hội Việt Nam đương đại, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, góp phần cung cấp tri thức đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tính tất yếu của sự phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội của loài người nói chung và ở Việt Nam nói riêng; góp phần chỉ rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những tri thức đúng đắn đó cho thấy, dù hiện nay chủ nghĩa tư bản có đạt được những thành công nhất định, song những mâu thuẫn, hạn chế nội tại của nó là không thể tránh khỏi. Nhận thức được tính tất yếu của quy luật phát triển xã hội giúp cho các tầng lớp nhân dân sẽ không bị “ru ngủ” bởi sự hào nhoáng bên ngoài của chủ nghĩa tư bản, mà cần tích cực đấu tranh với những “phản giá trị”, “phản phát triển” mà chủ nghĩa tư bản gây ra; qua đó, tích cực đấu tranh bảo vệ những giá trị tốt đẹp của đất nước, của chủ nghĩa xã hội đang ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao[31].
Thứ hai, nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; những khó khăn, phức tạp trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo vệ môi trường; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, vươn lên thoát nghèo... Nhờ đó, trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; chỉ số phát triển con người ngày càng cao, đặc biệt là có sự phát triển cao so với thu nhập. Việt Nam cũng thành công trong việc đạt mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, trong đó có một số mục tiêu đạt trước thời hạn.
Có thể khẳng định rằng, các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần làm sâu sắc hơn, cụ thể hơn sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời, góp phần tổng kết, phát triển lý luận của Đảng về đổi mới, tiếp tục xây dựng hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hệ thống nhận thức lý luận này đã góp phần quan trọng không chỉ cung cấp những luận cứ khoa học về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà còn góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa đất nước phát triển ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc./.
* Trích trong sách: Vũ Trọng Lâm (Chủ biên): Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024.
[1] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.91.
[2] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.24-25.
[3] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.36.
[4] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.27.
[5] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.9.
[6] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.17-18.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.178.
[8] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.51.
[9] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.37-38.
[10] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.18.
[11] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.25.
[12] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.37.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.33-34.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.34.
[15] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.46-47.
[16] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.34-35.
[17] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.35-36.
[18] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.238.
[19] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 365-366.
[20] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, 142.
[21] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.135.
[22] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 409.
[23] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.96.
[24] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.137.
[25] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.401.
[26] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.97.
[27] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.154-155.
[28] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.412.
[29] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, 405.
[30] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.113.
[31] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.36.