Điểm nổi bật của Luật là tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao.

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. (Ảnh: Quochoi.vn)
Với đa số các đại biểu có mặt tham gia biểu quyết tán thành, sáng 24/6, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Luật sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.
Cụ thể hóa “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch”
Trước đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh thay mặt Chính phủ báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Theo ông, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 19 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao.
Theo đó, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam (các trường hợp này đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 16/2020/NĐ-CP) được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19 .
Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép. Các trường hợp này được nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nếu cư trú ở nước ngoài.
Ngoài ra, bên cạnh việc kế thừa các quy định tại Nghị định 16/2020/NĐ-CP, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch” nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW để phù hợp tình hình mới tại Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.
Trước một số ý kiến đề nghị thuyết minh, làm rõ để bảo đảm tính khả thi của quy định nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam cũng như yêu cầu về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị rà soát Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Dẫn độ, Luật Cư trú, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam... liên quan đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
Về nội dung này, theo Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, để áp dụng thống nhất pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 5 theo hướng luật hóa quy định tại Điều 5 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc mà pháp luật quốc tịch của hầu hết các nước đều quy định. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam, đồng thời bảo đảm phù hợp với các quy định có liên quan như Bộ Luật Dân sự, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: TTXVN)
Hơn nữa, dự thảo Luật đã có quy định giao các bộ, ngành và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam, đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Cũng theo ông Ninh, thực hiện kết luận của Bộ Chính trị đối với dự án Luật, đồng thời tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại buổi thảo luận ở Tổ và Hội trường đề nghị cân nhắc kỹ quy định ngoại lệ đối với cả 04 nhóm đối tượng, nhất là các chức danh thuộc lực lượng vũ trang và cơ quan dân cử, cơ yếu do đây là những vị trí yêu cầu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân, liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia, Chính phủ đã chỉnh lý quy định tại khoản 5 Điều 5 theo hướng quy định nguyên tắc “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam” đối với 04 nhóm và chỉ quy định ngoại lệ đối với nhóm công chức, viên chức (trừ công chức, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang) nhằm thu hút các trường hợp có tài năng vượt trội có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp luật khác có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này.
Cụ thể như sau: “Người ứng cử, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, chỉ định giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, địa phương; người làm việc trong tổ chức cơ yếu; người tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam.
Đối với công chức, viên chức không thuộc quy định tại khoản 5 Điều này phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam. Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Trường hợp luật khác ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì áp dụng quy định của Luật này; trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện quy định này, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.”
Có lộ trình phù hợp để cắt giảm thủ tục hành chính
Làm rõ về quy định về khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến quốc tịch, ông Ninh cho biết tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ quy định không bị khiếu nại, khiếu kiện là đối với quyết định của cơ quan nhà nước có liên quan đến quốc tịch hay tất cả các hành vi hành chính có liên quan đến vấn đề quốc tịch, Chính phủ đã chỉnh lý quy định tại khoản 8 như sau “Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện.”
Thực tiễn giải quyết hồ sơ trong thời gian qua, có một số trường hợp mặc dù đã được cơ quan tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn bổ sung hoàn thiện nhưng tại thời điểm Bộ Tư pháp kiểm tra lại hồ sơ vẫn không đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định hoặc người xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam không bổ sung được giấy chứng nhận đã thôi quốc tịch nước ngoài; một số trường hợp Bộ Tư pháp nhận được văn bản của các cơ quan có liên quan đề nghị chưa giải quyết hoặc không giải quyết vì lý do an ninh.
Việc bổ sung quy định tại khoản 8 Điều 5 để bảo đảm không khiếu nại, khiếu kiện khi cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ra quyết định từ chối giải quyết hồ sơ quốc tịch trong các trường hợp nêu trên, thể hiện rõ quyền chủ quyền quốc gia ngay tại thời điểm cơ quan của Chính phủ xem xét hồ sơ trước khi trình Chủ tịch nước. Những kiến nghị, đề nghị liên quan đến giải quyết các việc về quốc tịch vẫn được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định.

Kết quả biểu quyết Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. (ẢNh: PV/Vietnam+)
Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho hay một số đại biểu Quốc hội đề nghị không nên quy định cứng phải có tên bằng tiếng Việt mà có thể là tên Việt hóa được hoặc có thể cho sử dụng tên gốc của người xin nhập quốc tịch Việt Nam bảo đảm hội nhập quốc tế.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý quy định tại khoản 4 Điều 19 và khoản 4 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng người xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho họ khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch.
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ số, dự thảo Luật đã bổ sung quy định tại Điều 39 (Trách nhiệm của Chính phủ về quốc tịch). Tuy nhiên, thủ tục giải quyết các việc quốc tịch (đặc biệt là thủ tục xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam) không chỉ là thủ tục hành chính thông thường mà còn là vấn đề thuộc quyền chủ quyền quốc gia, quy trình giải quyết có thể bao gồm cả thông tin mật, tối mật. Vì vậy, Chính phủ cho rằng việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số cần có lộ trình, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến trình tự, thủ tục (khoản 1 Điều 20, khoản 2 và khoản 3 Điều 21, khoản 1 Điều 24, khoản 4 Điều 25, khoản 5 Điều 29, Điều 41); sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng: cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện xác nhận có quốc tịch Việt Nam thay vì xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam và giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục xác nhận có quốc tịch Việt Nam. Việc cấp Hộ chiếu Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ số vào một số bước trong quy trình giải quyết hồ sơ quốc tịch trong quá trình sửa đổi toàn diện Luật này và quá trình xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam./.
Nguồn: https://www.vietnamplus.vn/