KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2024); KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ (7/5/1954 - 7/5/2024); KỶ NIỆM 134 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/5/1890 - 19/5/2024)
Lịch sử, văn hóa, con người Hưng Yên
Đăng ngày: 04/01/2024 - Lượt xem: 565
Một số di tích lịch sử và danh thắng trên mảnh đất Hưng Yên

Hưng Yên là quê hương của nhiều di tích lịch sử, đặc biệt là đền, chùa. Đồng thời, Hưng Yên cũng là một trong những địa danh lưu giữ và bảo tồn một số di tích, di vật được đánh giá là những tác phẩm quý hiếm, với vẻ đẹp của thời gian và giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc,..Tất cả mang đến cho chúng ta cái nhìn sửng sốt trước vẻ đẹp của sự kết hợp kiến trúc truyền thống và hiện đại.

1. Văn Miếu - Xích Đằng
Văn Miếu Hưng Yên là Văn Miếu hàng tỉnh, còn gọi là Văn Miếu - Xích Đằng, xây dựng năm Minh Mạng thứ 20 (năm 1839) trên khu đất cao, rộng khoảng 4.000 m2, thuộc thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên. Văn Miếu - Xích Đằng hiện còn lưu giữ 9 tấm bia đá, trong đó 8 tấm bia được lập năm Đồng Khánh thứ 3 (năm 1888) và 01 tấm bia lập năm Bảo Đại thứ 18 (năm 1943) ghi danh các nhà khoa bảng Hưng Yên. Từ thời Trần đến năm 1919 - khoa thi cuối cùng của khoa cử nho học, 138 vị đỗ đại khoa được lưu danh. Học vị cao nhất là Trạng nguyên Tống Trân, người thôn An Cầu, huyện Phù Cừ (đời Trần); Trạng nguyên Nguyễn Kỳ, người xã Bình Dân, huyện Khoái Châu (triều Mạc). Chức vụ cao nhất là Lê Như Hổ, quận công triều Mạc.
Tam quan Văn miếu Xích Đằng
Trước đây, vào các ngày 10 tháng giêng và 14 tháng 8 tại Văn Miếu - Xích Đằng đều tổ chức tế lễ Khổng Tử, các quan lại đương triều về dự rất đông.
Trải qua nhiều biến đổi, thăng trầm của lịch sử, Văn Miếu - Xích Đằng vẫn lưu giữ khá nguyên vẹn kiến trúc ban đầu gồm: tam quan, lầu chuông, lầu khánh, hai dãy tả vu, hữu vu. Văn Miếu Hưng Yên đã trở thành biểu tượng về văn hoá, văn hiến của tỉnh Hưng Yên.
2. Chùa Hương Lãng (Chùa Lạng)
Thuộc thôn Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm. Chùa có quy mô lớn, gồm nhiều toà, bố cục kiến trúc theo kiểu "nội công, ngoại quốc". Năm 1955, chùa bắt đầu được trùng tu.
Hiện nay, chùa Hương Lãng còn lưu giữ nhiều di vật thời Lý. Trong đó, giá trị nhất là tượng sư tử (tượng ông Sấm) được tạo bằng phiến đá lớn (2,8 m x 1,5 m x 0,9m) với những nét chạm khắc hết sức tinh xảo và đẹp mắt. Ngoài ra, chùa còn có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng, chồn và hoa cúc dây; 4 cột đá vuông góc đỡ các xà đá của công trình, nhiều tảng đá chân cột chạm khắc cánh hoa sen và hoa cúc rất tỉ mỉ và tinh vi. Đây là những tác phẩm vô giá của thời Lý còn được lưu giữ.
3. Chùa Thái Lạc (Chùa Pháp Vân)
Chùa thuộc thôn Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm. Chùa được xây dựng từ đời Trần (1225 - 1400) và được tu sửa vào các năm 1609, năm 1612, 1630 - 1636, 1691 - 1703. Hiện nay, chùa có kiến trúc theo kiểu "nội công, ngoại quốc", gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, 2 dãy hành lang mỗi bên 9 gian, nhà tổ 7 gian. Chùa Thái Lạc còn giữ được bộ vì gỗ mang kiến trúc thời Trần ở gian giữa toà thượng điện. Loại hình này ở nước ta rất hiếm, ngoài chùa Thái Lạc chỉ còn thấy ở chùa Dâu, chùa Bối Khê. Trên các đố, cột, đấu của bộ vì có nhiều mảng chạm khắc lớn. Khi còn nguyên vẹn, chùa lưu giữ khoảng 20 bức chạm nổi với các đề tài khác nhau, nhưng đến nay tại chùa Thái Lạc còn 16 bức. Chẳng hạn như hình chạm tiên nữ đầu người mình chim, ông phỗng giơ tay đỡ toà tháp sen, tiên nữ cưỡi phượng, thổi tiêu, kéo nhị, thổi sáo, đánh đàn,...
Năm 1964, chùa Thái Lạc được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật đặc biệt quan trọng.
4. Đền Đậu An (Đền An Xá)
Đền thuộc làng An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, thờ Ngũ Lão tiên ông và đấng Thiên Tiên, Địa Tiên đã giúp dân khai hoang, diệt trừ hổ dữ, bảo vệ mùa màng. Đền Đậu An còn lưu giữ các di vật bằng đất nung độc đáo như nhang án đất nung thời Trần và tháp đất nung có niên đại thế kỷ XVII. Đây là những di vật đất nung, mang nhiều nét hoa văn tinh xảo, có giá trị văn hoá cao.
Lễ hội truyền thống đền Đậu An diễn ra từ ngày mùng 6 đến ngày 12 tháng 4 âm lịch với nhiều trò chơi hấp dẫn, thú vị.
5. Đền Mẫu
Đền nằm trên địa bàn phường Quang Trung, thị xã Hưng Yên, là một trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất của Phố Hiến. Đền Mẫu thờ Quý Phi họ Dương (thuộc nhà Tống), được người đời tán xưng là Dương Thiên Hậu, Mẫu Nghi Tiên Hạ.
Tương truyền, vào thế kỷ XIII, khi quân Nguyên xâm lược Trung Quốc, không chịu khuất phục trước sự truy bức của quân Nguyên, trên đường xuôi thuyền chạy về phương nam, vua Tống cùng một số người thân cận đã tự tận. Thi thể của Dương Quý Phi trôi dạt về vùng cửa sông Phố Hiến, được nhân dân chôn cất chu đáo. Qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc đền khá hoàn chỉnh gồm: tam quan, thiên hương, tiền tế, trung từ, hậu cung. Trong đền lưu giữ nhiều di vật quý như kiệu vòng, long đình, long sàng, long kỷ có niên đại thế kỷ XVIII - XIX và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến triều Nguyễn cùng nhiều bức hoành phi, câu đối, đại tự, ca ngợi tấm gương trung trinh, tiết liệt của Quý Phi.
Lễ hội truyền thống đền Mẫu tổ chức từ ngày 10 đến 13 tháng 3 âm lịch. Trong buổi lễ diễn ra lễ rước và nhiều trò chơi dân gian.
6. Đền Ủng
Đền thuộc thôn Phù ủng, xã Phù ủng, huyện Ân Thi. Đền thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão, một danh tướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, giặc phương Nam và Ai Lao.
Đền bị thực dân Pháp phá hoại năm 1948. Năm 1990, ngôi đền đã được phục hồi với 5 gian tiền bái, 3 gian hậu cung. Trong quần thể di tích đền ủng có lăng Phạm TIên Công (thân sinh Phạm Ngũ Lão), đền Nhũ Mẫu (mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão), đền Tĩnh Huệ công chúa (con gái Phạm Ngũ Lão),... Hội chính đền ủng tổ chức trong các ngày 11 - 15 tháng giêng âm lịch, kỷ niệm ngày ra quân của Phạm Ngũ Lão.
7. Chùa Nễ Châu
Chùa thuộc thôn Nễ Châu, xã Hồng Na, huyện Tiên Lữ. Chùa được xây dựng cuối thế kỷ thứ X. Trải qua nhiều lần tu sửa, chùa vẫn giữ được mẫu dạng kiến trúc của thế kỷ XVII. Nổi bật về giá trị nghệ thuật điêu khắc chùa Nễ Châu là bộ Tam Thế và tượng Tuyết Sơn có niên đại thế kỷ XVIII. Tượng được tạo tác cân đối, đường nét sống động, thể hiện trình độ tạo hình khá điêu luyện.
8. Chùa Hiến (Thiên Ứng tự)
Chùa Hiến toạ lạc tại đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên. Tương truyền chùa được xây dựng từ đời vua Trần Thái Tông (1232 - 1250), do Tô Hiến Thành, quan đại thần nhà lý xây dựng. Chùa được trùng tu vào năm 1625 và năm 1709. Chùa Hiến có bố cục kiểu "nội công, ngoại quốc" gồm tiền đường, thiên hương, thượng điện và 3 mặt là hành lang. Giữa thượng điện là tượng Quân Âm Nam Hải, phía trước là tượng tứ vị bồ tát. Các pho tượng này đều có niên đại thế kỷ XIX. Nhìn chung, đây là di tích không thật đặc sắc về kiến trúc so với các di tích cùng loại hình đương thời. Nhưng giá trị của ngôi chùa này chính là 02 tấm bia đá ở phía trước sân chùa.
Một tấm bia "Thiên ứng tự - Tân tự trùng tu thạch bi ký" niên đại Vĩnh Tộ thứ 7 (năm 1625) ghi việc ưng công tu sửa chùa và tấm bia ghi nhận "Phố Hiến Nam nổi tiếng là nơi đô hội tiểu Tràng An của bốn phương". Qua đó, chúng ta có thể hình dung được Phố Hiến là nơi hội tụ của cư dân bốn phương về giao lưu, buôn bán.
Phía trước chùa Hiến còn có cây nhãn tổ, tên gọi là cây nhãn Tiến. Đây là cây nhãn đường phèn, mã lụa, quả to, cùi dày, có hương vị thơm ngon đặc sắc nhất. Thân cây chính đã già cỗi, chỉ còn một nhánh được đắp vun gốc, chăm sóc phát triển thành cây hậu duệ, biểu tượng của giống nhãn lồng đặc sản Phố Hiến - Hưng Yên.
9. Chùa Chuông (Kim Chung tự)
Chùa thuộc thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thị xã Hưng Yên. Chùa Chuông được xây dựng từ thời Lê, tương truyền, cảnh đẹp nơi đây đứng vào hàng danh lam cổ tích của Phố Hiến. Năm 1707, chùa được trùng tu với quy mô hoàn chỉnh và kiến trúc tiêu biểu của chùa Việt Nam thời Hậu Lê. Cái đẹp của quần thể kiến trúc chùa Chuông chính là ở bố cục cân đối, nhịp nhàng. Từ ngoài vào là tam quan, kiến trúc chồng diêm 2 tầng, 8 mái. Qua cầu đá là khoảng sân đến nhà tiền đường, thiên hương, thượng điện, phía cuối là lầu chuông, lầu khánh, nhà tổ. Trong chùa có hệ thống tượng Phật phong phú như: bộ Tam thế, Di Đà tam tôn, tượng Cửu Long,... nổi bật là 8 tượng kim cương, 18 vị la hán, 4 tượng bồ tát. Đây thực sự là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Ngoài ra, chùa còn có nhiều di vật như: hoành phi, câu đối, đồ thờ, bia đá,...
10. Chùa Phố
Chùa Phố có tên tự là Bắc Hoà Nhân Dân tự. Chùa được những người Hoa và người bản địa xây dựng vào thế kỷ thứ XVIII. Chùa được trùng tu lần cuối vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chùa có lối kiến trúc tổng thể theo kiểu trùng thềm điệp mái. Kiến trúc tam quan theo kiểu chồng diêm 8 mái. Toàn bộ chùa chính gồm 6 gian nối liền nhau theo chiều dọc, tạo ra khoảng không gian khá rộng. Tiếp giáp với chùa chính là 4 gian nhà tổ, kiến trúc theo kiểu kèo cầu quá giang, thông với sân trước. Năm 1992, chùa được công nhận di tích quốc gia. Từ khi tỉnh Hưng Yên được tái lập, chùa Phố được chọn làm trụ sở của Ban trị sự giáo hội Phật giáo tỉnh Hưng Yên.
11. Đền Dạ Trạch
Đền thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân công chúa. Tương truyền, đền Dạ Trạch được xây dựng trên nền cao của lâu đài thành quách xưa, ngay sau khi Chử Đồng Tử, Tiên Dung hoá về trời. Đền Dạ Trạch còn lưu giữ nhiều cổ vật như sắc phong, hoành phi câu đối, đại tự. Đặc biệt là chiếc nón và cây gậy - phép biến hoá của Chử Đồng Tử dùng để cứu nhân độ thế. Trong quần thể di tích còn có Đầm Dạ Trạch, dấu tích của khu đầm Dạ Trạch trước đây, nơi Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục đóng quân chống quân Lương xâm lược thắng lợi. Hàng năm, đền Hoá Dạ Trạch có 4 tiết chính: ngày 4-1 (âm lịch) ngày sinh Tiên Dung công chúa, 10-2 ngày sinh Hồng Vân công chúa, 12-8 ngày sinh Chử Đồng Tử, 17-11 ngày kỵ thánh. Lễ hội chính diễn ra từ ngày 10 đến 12 tháng 2 âm lịch.
12. Đền Đa Hoà
Đền thuộc thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, thờ Chử đồng Tử, Tiên Dung, Hồng Vân công chúa. Đền nhìn ra sông Hồng và bãi Tự Nhiên, nơi tác thành mối tình Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Khu đền bao gồm 18 công trình lớn nhỏ: nhà bia, gác chuông, gác khánh, ngọ môn, nhà tiền tế, toà thiên hương, đệ nhị cung, đệ tam cung, hậu cung và các nhà thảo xá. Các mái đền tạo dáng hinh thuyền rồng cách điệu. Nhìn từ trên cao sẽ thấy các nóc đền tổ hợp lại trông giống như đoàn thuyền của nàng Tiên Dung lúc 18 tuổi đang du ngoạn trên sông. Đền Đa Hoà còn giữ được nhiều di vật quý giá: tượng đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đúc bằng đồng, tầm vó như người thật. Ba cỗ ngai thờ Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân bằng gỗ, đầu ngai chạm rồng có niên đại cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, được đánh giá là chiếc ngai cổ nhất còn tìm thấy ở nước ta.
Nguồn: Theo cuốn "Hưng Yên thế và lực"
Tin liên quan